Con đường đất
dài hơn 10 km trơn trượt, đầy dốc cao từ xã Mường Đăng (huyện Mường Ảng, tỉnh
Điện Biên) như sợi chỉ vắt vẻo qua những núi đồi, vực sâu dẫn đến bản
Chan II, nơi sinh sống của 64 hộ dân thuộc cộng đồng dân tộc Mông từ bao đời
nay. Từ đầu chân dốc bắt đầu lên bản, hướng lên đỉnh núi Thẩm Hái cao hơn
1.500 m so với mực nước biển, vọng lại tiếng khèn trầm bổng. Chủ nhân của những
thanh âm trong trẻo, bộc lộ vẻ đẹp tự nhiên của vùng cao bao la, hùng vĩ đó là
già làng Lý A Lệnh, người uy tín của bản.
Dưới hiên của căn nhà gỗ, người đàn ông gần 60 tuổi, tóc hoa
râm, nước da đỏ đang cặm cụi chế tác khèn. Bên cạnh ông là ngổn ngang những ống
trúc và vô số vật dụng mà chỉ riêng ông mới gọi được tên cũng như hiểu rõ công
năng của chúng trong quá trình chế tác cây khèn. Ông Lý A Lệnh đang dùng dao
“lá lúa” loại nhỏ, sắc lẹm để chau chuốt bầu khèn bằng gỗ pơ-mu.
Ông Lý A Lệnh chia sẻ về “cái duyên” ông đến với cây khèn
Mông và gắn bó với nó như một phần không thể thiếu trong cuộc đời. Thủa nhỏ,
mỗi lần theo chân cha xuống núi đi chợ phiên, đi chơi hội “gầu tào”, tiếng khèn
đã mê hoặc, níu giữ và hằn sâu vào tâm trí Lý A Lệnh. Để rồi những ngày sau đó,
tiếng khèn đi vào giấc ngủ, bữa ăn của chàng trai Lý A Lệnh từ khi nào không
hay. Tròn 15 tuổi, Lý A Lệnh mê khèn đến nỗi đi đường, đi nương gặp ai
mang theo khèn là Lý A Lệnh phải tìm cách tiếp cận, cố nài nỉ để được cầm nắm,
ngắm nghía cây khèn mới thôi. Chiều lòng con trai với độ mê khèn, say khèn hiếm
có, bố mẹ của Lý A Lệnh bán một con trâu để có tiền cho Lệnh đi sang huyện khác
mua khèn và học làm khèn. Với khả năng thẩm âm tinh tế, cùng với niềm đam mê
khèn và thái độ ham học hỏi, độ tuổi 20, Lý A Lệnh đã trở thành một người chơi
khèn có tiếng của vùng đất Mường Ảng.
Ông Lý A Lệnh cho biết: “Nhạc cụ dân tộc Mông chủ yếu gồm Khèn, Đàn môi, Sáo,
Kèn, Ống hát, Nhị, Tính tẩu… Các loại nhạc cụ tuy đơn giản nhưng chứa đựng vốn
trí thức dân gian quý giá, biểu đạt phong phú qua các cách diễn đạt âm thanh,
cảm xúc và được xem như “bảo vật” đầy sống động của dân tộc Mông trong suốt
chiều dài lịch sử sinh tồn, phát triển trên dải đất biên cương phía Bắc của Tổ
quốc. Mỗi loại nhạc cụ đều có một vị trí không thể thiếu được trong đời sống
văn hóa tinh thần của cộng đồng dân tộc Mông.
Sau khi hoàn
thành chiếc khèn, nghệ nhân phải thổi rất nhiều lần để kiểm tra âm thanh. Ảnh:
Phan Tuấn Anh/TTXVN
Riêng về cây khèn, đây là nhạc cụ thể hiện sâu nặng chất trữ
tình đằm thắm, mượt mà nhưng cũng thật khỏe khoắn, bao la. Thân khèn được chế
tác bằng gỗ pơ-mu cùng với sáu ống trúc lớn, nhỏ, dài ngắn khác nhau được khai
thác ở rừng sâu, có độ tuổi hơn 10 năm. Sáu ống trúc được xuyên qua bầu khèn
(hộp cộng hưởng) hình bắp chuối, xếp khéo léo, song song trên thân khèn. Các
ống trúc được ghép thành từng đôi từ nhỏ đến lớn, từ dài đến ngắn. Trong mỗi
ống trúc có gắn một lá đồng mỏng để phát ra âm thanh riêng. Độ cao thấp, vang
ngân của ống trúc phụ thuộc vào việc điều chỉnh các lá đồng. Khi thổi khèn, các
âm từ sáu ống trúc vang lên, tạo ra những thanh âm khi trầm, khi bổng.
Đóng vai trò quan trọng đến chất lượng âm thanh của tiếng
khèn là những lá đồng. Để có được lá đồng, người chế tác khèn phải tự nấu đồng,
rèn thành lưỡi mỏng. Một lưỡi lam đồng được chọn để chế tác khèn khi thả rơi
vào phiến đá tai mèo, đá mồ côi sẽ phát ra âm thanh và có độ rung, ngân. Hoàn
thiện một chiếc khèn từ khâu chuẩn bị nguyên liệu đến giai đoạn đẽo gọt, mài
giũa các bộ phận, cắt ống khèn, dùi lỗ, lắp lá đồng và lắp ráp cũng phải mất cả
năm ròng. Riêng việc lắp ráp các bộ phận của cây khèn, thử và chỉnh sửa âm
thanh, dán vỏ cây đào rừng cạo nhẵn lên bầu khèn, thân khèn để trang trí và tạo
phần chắc chắn cho cây khèn cũng đã mất 3 ngày làm liên tục. Công đoạn này đòi
hỏi khả năng cảm thụ âm thanh tinh tế, con mắt thẩm mỹ, tâm hồn nhạy cảm và cao
hơn cả là thái độ làm việc say mê, tỉ mỉ, cẩn trọng.
Với người Mông, cây khèn có ý nghĩa sâu sắc, đó vừa là
phương tiện giao tiếp của con người với thế giới tâm linh, vừa là tâm hồn, bản
sắc của cả một cộng đồng dân tộc. Khèn Mông thường được sử dụng trong hai
trường hợp: Trong đám tang để tỏ lòng xót thương, luyến tiếc người quá cố,
trường hợp này các bài khèn nhằm ôn lại lịch sử của con người từ khi sinh ra,
lớn lên rồi trở về cõi vĩnh hằng, vô biên. Khi vui chơi thi thố tài năng, bộc
lộ ý chí, nghị lực của con người, người chơi khèn vừa múa, vừa thổi những bài
hát ngợi ca quê hương, bản làng, giãi bày tâm tư, tình cảm bằng tiếng khèn véo
von, say đắm lòng người. Cây khèn truyền thống của người Mông có sáu ống trúc,
đó là con số biểu trưng cho tình anh em đoàn tụ, tính cố kết cộng đồng, làng
bản.
Nghệ nhân
truyền dạy cách làm khèn cổ truyền cho thế hệ sau. Ảnh: Phan Tuấn Anh/TTXVN
Ông Lý A Lệnh chia sẻ: Người Mông thích nghe
khèn, thích thổi khèn và múa khèn, tiếng khèn là tiếng hát về lịch sử cộng
đồng, về tình mẫu tử, anh em và lẽ sống làm người chứ không riêng gì là lời tỏ
tình trai gái. Trước đây, con trai Mông từ 13 tuổi đã có cây khèn trên vai mỗi
khi lên nương, xuống chợ. Người Mông khi vui, khi buồn đều mang khèn ra thổi
như gửi gắm cả tâm tư, tình cảm của mình trong tiếng khèn. Vào mùa xuân hay
những dịp lễ, hội, tiếng khèn của người Mông vang vọng khắp núi rừng, nương đá
tai mèo, đánh thức cả chim muông, cây cối nơi bản rẻo cao. Tiếng khèn là phần
hồn của người Mông, tiếng khèn thấm sâu vào máu thịt người Mông, âm thanh của
tiếng khèn là cuộc sống, tâm hồn, cốt cách người Mông. Bởi vậy mà chàng trai
Mông nào thổi khèn hay, múa khèn giỏi sẽ luôn nhận được sự quý mến, nể phục của
nhiều người.
Theo ông
Lý A Lệnh, học thổi khèn dễ nhưng để thổi thành bài, thành điệu rất khó, đặc
biệt là đối với những bài múa khèn cổ đã được trao truyền, gìn giữ từ bao đời,
qua bao nhiêu thế hệ. Thổi được khèn đã khó nhưng biết múa khèn lại càng khó
hơn, đòi hỏi người chơi khèn phải thật sự yêu nghề để có một quá trình lao động
bền bỉ, miệt mài dụng tâm và dụng công. Tùy vào môi trường, không gian biểu
diễn, diễn xướng, người múa khèn sẽ vận dụng các động tác như “múa nhảy đưa
chân”, “quay đổi chỗ”, “quay tại chỗ”, “vờn khèn”, “lăn nghiêng”, “lăn ngửa”,
“múa ngồi xổm”... khi biểu diễn. Động tác cơ bản trong múa khèn là “đi tiến, đi
lùi” theo bốn hướng, mỗi bước di chuyển, chân này chạm gót chân kia; hoặc khom
lưng, quay hất gót tại chỗ và quay hất gót di động trên vòng quay lớn rồi thu
hẹp dần theo những đường tròn đồng tâm, hình xoắn ốc. Muốn trở thành một người
thổi khèn giỏi, múa khèn đẹp, người chơi phải luyện tập từ bé để có thân hình
vừa khỏe khoắn, lại mềm dẻo và có cách lấy hơi dài, luyện khí tốt.
Với người
Mông ở Điện Biên và các tỉnh lân cận, nhắc đến ông Lý A Lệnh là người ta nghĩ
ngay đến người có biệt tài chế tác và sử dụng khèn Mông, làm và thổi sáo Mông,
Đàn môi rất giỏi. Vào những dịp lễ hội của người Mông, ông Lý A Lệnh lại băng
rừng, vượt suối cả tháng để có mặt tại các bản vùng cao tham gia biểu diễn khèn
Mông như một hình thức khẳng định vai trò, vị trí của cây khèn trong cuộc sống
và tâm thức người Mông, cũng là cơ hội để trình diễn và trao truyền các kỹ năng
múa khèn, làm khèn cho thế hệ trẻ các bản làng. Vũ điệu tổng hòa của bước chân,
của cơ thể ông và âm thanh của cây khèn dưới những ngón tay tài hoa hòa quyện với
nhau giúp cho người thưởng thức có những rung cảm và tình yêu đối với cây khèn
thật sự.
Điều
khiến ông Lý A Lệnh đau đáu là hiện nay, do có nhiều lý do mà cây khèn đang dần
vắng bóng trong đời sống sinh hoạt của đồng bào Mông. Người biết chế tác khèn, múa
khèn giỏi càng ngày càng hiếm nên tri thức sử dụng, lưu truyền di sản âm nhạc
cổ truyền của cây khèn đang dần càng mai một... Ý thức được vấn đề này, nhiều
năm qua, ông Lý A Lệnh càng nỗ lực miệt mài chế tác khèn Mông, nỗ lực truyền
dạy cách làm khèn và sử dụng khèn cho các con cháu trong dòng họ, cho người dân
trong bản.
Với những
đóng góp xuất sắc trong gìn giữ và phát huy di sản văn hóa phi vật thể của dân
tộc, tháng 3/2019, ông Lý A Lệnh đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu “Nghệ
nhân Ưu tú” trong lĩnh vực di sản văn hóa phi vật thể. Ông là một trong số ít
những người có khả năng chế tác, sử dụng khèn Mông và đang lưu giữ nhiều những
điệu múa khèn cổ của dân tộc Mông.